Thứ Tư, 20 tháng 3, 2013

Lịch sử Máy ảnh số

Trích: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.

Máy ảnh số (ngày nay, tại Việt Nam thường gọi là máy ảnh kĩ thuật số) là một máy điện tử dùng để thu và lưu giữ hình ảnh một cách tự động thay vì phải dùng phim ảnh giống như máy chụp ảnh thường. Những máy chụp ảnh số đời mới thường có nhiều chức năng, ví dụ như có thể ghi âm, quay phim. Ngày nay, máy chụp ảnh số bán chạy hơn máy chụp ảnh phim 35mm. Máy ảnh số hiện nay bao gồm từ loại có thể thu gọn vào trong điện thoại di động cho đến sử dụng trong các thiết bị chuyên nghiệp như kính viễn vọng không gian Hubble và các thiết bị trên tàu vũ trụ.

decal hologram.

Những nghiên cứu đầu tiên

Ý tưởng số hoá ảnh bằng máy scan và ý tưởng số hoá tín hiệu ảnh động xuất hiện trước ý tưởng chụp ảnh số.

Ảnh số được chụp đầu tiên vào tháng 12 năm 1975 bằng máy của hãng Eastman Kodak. Máy đó dùng bộ cảm biến CCD do Fairchild Semiconductor làm ra năm 1973. Máy này nặng 3,6Kg, chụp ảnh trắng đen có độ phân giải 10.000 pixel và ghi vào băng từ. Chụp mỗi tấm ảnh mất 23 giây.

Máy chụp ảnh số đầu tiên trông giống máy chụp ảnh thường là máy Sony Mavica (Magnetic Video Camera) sản xuất năm 1981. Máy này dựa trên công nghệ truyền hình analog để chụp ảnh. Ảnh có độ phân giải tương đương màn hình TV.

Mãi tới năm 1984 Canon giới thiệu Canon RC-701, một máy chụp ảnh điện tử analog, trong Thế vận hội. Máy này không phổ biến được vì nhiều lý do: giá đắt (tới 20.000$), chất lượng hình kém hơn ảnh phim, và máy in không có sẵn.

Những người dùng đầu tiên là giới làm tin, giá đắt đối với họ không phải là vấn đề khi mà họ cảm thấy tiện lợi khi truyền ảnh qua đường điện thoại. Chất lượng thấp cũng không sao vì như vậy là đủ để in trên giấy báo.

vật liệu chống thấm.

Máy ảnh số thật sự

Máy ảnh số thật sự đầu tiên là Fuji DS-1P vào năm 1988, hình chụp được ghi vào thẻ nhớ 16MB (phải nuôi bộ nhớ này bằng pin). Máy ảnh số đầu tiên được bán rộng rãi là Kodak DSC-100 năm 1991. Nó có độ phân giải 1,3MP và giá là 13.000$.

Máy chụp ảnh số đầu tiên có màn hình tinh thể lỏng là Casio QV-10 năm 1995. Máy chụp ảnh số đầu tiên dùng CompactFlash là Kodak DC-25 năm 1996.

Máy chụp ảnh số loại bình dân đầu tiên đạt đến độ phân giản 1MP vào năm 1997. Máy chụp ảnh số đầu tiên có thể ghi ảnh động là Ricoh RDC-1 năm 1995.

Năm 1999, Nikon giới thiệu Nikon D1, máy chụp ảnh DSLR đầu tiên với độ phân giải 2,74MP, có giá dưới 6.000$ (giá chấp nhận được đối với nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp và giới chơi ảnh nhiều tiền). Máy này dùng ống kính theo chuẩn Nikon F-mount giống như các máy chụp ảnh phim.

Năm 2003, Canon cho ra đời Canon Digital Rebel, còn gọi là 300D, có độ phân giải 6MP và là chiếc DSLR đầu tiên có giá dưới 1.000$.

đề can chống cháy, vải địa kĩ thuật, màng chống thấm.

Thứ Ba, 19 tháng 3, 2013

Mạng không dây - wireless network

Compiled from Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.

Mạng không dây (tiếng Anh: wireless network) là mạng điện thoại hoặc mạng máy tính sử dụng sóng radio làm sóng truyền dẫn (carrier wave) hay tầng vật lý.

Wi-Fi

Wi-Fi - một tập các chuẩn tương thích sản phẩm dành cho các mạng WLAN dựa trên đặc tả IEEE 802.11

Wi-Fi viết tắt từ Wireless Fidelity hay mạng 802.11 là hệ thống mạng không dây sử dụng sóng vô tuyến, giống như điện thoại di động, truyền hình và radio.

Hệ thống này đã hoạt động ở một số sân bay, quán café, thư viện hoặc khách sạn. Hệ thống cho phép truy cập Internet tại những khu vực có sóng của hệ thống này, hoàn toàn không cần đến cáp nối. Ngoài các điểm kết nối công cộng (hotspots), WiFi có thể được thiết lập ngay tại nhà riêng.

Tên gọi 802.11 bắt nguồn từ viện IEEE (Institute of Electrical and Electronics Engineers). Viện này tạo ra nhiều chuẩn cho nhiều giao thức kỹ thuật khác nhau, và nó sử dụng một hệ thống số nhằm phân loại chúng; 4 chuẩn thông dụng của WiFi hiện nay là 802.11a/b/g/n.

Hoạt động

Truyền thông qua mạng không dây là truyền thông vô tuyến hai chiều. Cụ thể:

  • Thiết bị adapter không dây (hay bộ chuyển tín hiệu không dây) của máy tính chuyển đổi dữ liệu sang tín hiệu vô tuyến và phát những tín hiệu này đi bằng một ăng-ten.
  • Thiết bị router không dây nhận những tín hiệu này và giải mã chúng. Nó gởi thông tin tới Internet thông qua kết nối hữu tuyến Ethernet.

Qui trình này vẫn hoạt động với chiều ngược lại, router nhận thông tin từ Internet, chuyển chúng thành tín hiệu vô tuyến và gởi đến adapter không dây của máy tính.

Adapter

Các máy tính nằm trong vùng phủ sóng WiFi cần có các bộ thu không dây, adapter, để có thể kết nối vào mạng. Các bộ này có thể được tích hợp vào các máy tính xách tay hay để bàn hiện đại. Hoặc được thiết kế ở dạng để cắm vào khe PC card hoặc cổng USB, hay khe PCI.

Khi đã được cài đặt adapter không dây và phần mềm điều khiển (driver), máy tính có thể tự động nhận diện và hiển thị các mạng không dây đang tồn tại trong khu vực./.

Router

Nguồn phát sóng WiFi là máy tính với:

  1. Một cổng để nối cáp hoặc modem ADSL
  2. Một router (bộ định tuyến)
  3. Một hub Ethernet
  4. Một firewall
  5. Một access point không dây

Hầu hết các router có độ phủ sóng trong khoảng bán kính 30,5 m về mọi hướng.

WAP

WAP (viết tắt của Wireless Application Protocol - Giao thức Ứng dụng Không dây) là một tiêu chuẩn công nghệ cho các hệ thống truy nhập Internet từ các thiết bị di động như điện thoại di động, PDA, v.v... Mặc dù tiêu chuẩn này chưa được chuẩn hóa trên toàn cầu, nhưng những ứng dụng của giao thức này đã tác động rất lớn đến ngành công nghiệp di động và các lĩnh vực dịch vụ liên quan. WAP là giao thức truyền thông mang lại rất nhiều ứng dụng cho người sử dụng thiết bị đầu cuối di động như E-mail, web, mua bán trực tuyến, ngân hàng trực tuyến, thông tin chứng khoán, v.v...

Với các xu hướng triển khai các ứng dụng vô tuyến băng thông rộng trong mạng NGN, rất nhiều các công nghệ đã được đề xuất để tích hợp và hội tụ các dịch vụ mạng. WAP là một giải pháp công nghệ đem lại nhiều lợi ích cho người sử dụng thiết bị đầu cuối vô tuyến cũng như các gia tăng giá trị của các nhà cung cấp dịch vụ mạng. Tuy nhiên, triển khai WAP là một vấn đề phức tạp và liên quan tới nhiều hướng phát triển công nghệ khác như phần cứng, bảo mật, v.v...

WPA/WPA2

WPA (viết tắt của Wi-Fi protected access) là một giao thức an ninh trên những mạng không dây . Nó được tạo ra để thay thế WEP (Wired Equivalent Privacy) vì WEP đã trở nên lỗi thời vì dể bị phá để tìm ra khóa. WPA được trình làng vào năm 2003 và sau đó đến WPA2 (an toàn hơn WPA) ra mắt vào năm 2004. WPA dùng giao thức TKIP để tạo ra một khóa dài 128 bit cho mỗi cụm/gói (packet hay frame) gởi qua sóng vô tuyến khác với WEP là dùng duy nhất một khóa cho mọi cụm/gói. Ngoài ra WPA còn dùng giao thức Michael để kiểm tra sự toàn vẹn của các cụm/gói, để chắc chắn là chúng không bị ai bắt được và thay đổi. WPA2 có tên chuẩn chính thức là IEEE 802.11i.

decal hologram, decal giấy, đề can chống cháy, decal bạc, decal nhôm, decal nhựa, vải địa kĩ thuật, vật liệu chống thấm, màng chống thấm,

Thứ Ba, 12 tháng 3, 2013

[The Big Picture] Kỷ niệm 2 năm động đất sóng thần ở Nhật Bản: Trước và Sau

Hôm ngày 11/03/2013, đúng 2 năm sau trận động đất sóng thần khủng khiếp tàn phá miền Đông Bắc nước Nhật. Đã có gần 19.000 người thiệt mạng, các ngôi làng gần biển đã bị tàn phá hoàn toàn và nhà máy điện hạt nhân Fukushima cũng bị hư hỏng. Giờ đây, những đống đổ nát đã được dọn đi, và công cuộc tái thiết vẫn đang diễn ra, tuy nhiên dấu tích về thảm hoạ khủng khiếp vẫn còn rất rõ, ở cả khung cảnh xung quanh lẫn tâm trí của người dân. Bộ ảnh sau đây sẽ cho chúng ta nhìn lại thảm hoạ khủng khiếp đó và những thay đổi sau 2 năm dọn dẹp và tái thiết.

decal bạc, decal nhôm, decal nhựa,

Hai bức ảnh cho thấy khu vực Kesennuma, quận Miyagi vào thời điểm xảy ra trận động đất sóng thần 12/03/2011 (trái) và hai năm sau 04/03/2013.

Một chiếc máy bay tư nhân, xe ô tô và đống đổ nát bên ngoài sân bay Sendai, ở Natori, quận Miyagi, 13/03/2011 (ảnh trên). Và cũng chính tại nơi đó 2 năm sau, 21/02/2013 (ảnh dưới).

Decal giấy, đề can chống cháy, decal,

Một chiếc du thuyền bị sóng đánh lên ngôi nhà 2 tầng ở Otsuchi, quận Iwate, 16/04/2011. Hai năm sau, đống đổ nát đã được dọn sạch, chỉ còn thấy ngôi nhà ngày xưa, nhưng cũng đã xiêu vẹo, 18/02/2013. đề can, nhãn mác, không halogen, Halogen free - flame retardant,

Người dân đi qua một cây cầu bị rác bao phủ tại một khu vực bị sóng thần tràn qua thuộc thành phố Ishinomaki, quận Miyagi, 15/03/2011 (ảnh trên). Ảnh dưới cũng là chính cây cầu đó 2 năm sau, 22/02/2013.

sticker labels, printing stickers, stickers,

Người dân đứng nhìn cảnh hoang tàn sau trận động đất sóng thần ở vùng Minamisoma, quận Fukushima, 12/03/2011. Ảnh dưới là khu vực đó 2 năm sau, 17/02/2013.

Những chiếc xe ô tô bị hoen gỉ và đống đổ nát ở Ishinomaki, quận Miyagi, 19/03/2011 (ảnh trên). Hai năm sau, đống đổ nát đã được dọn đi nhưng vẫn chưa được xây dựng lại, 01/03/2013.

Những đống đổ nát bao phủ một vùng rộng lớn ở Natori, gần Sendai, quận Miyagi, 13/03/2011 (ảnh trên) và cánh đồng đó 2 năm sau, 21/02/2013.

Sóng thần tàn phá khu vực Rikuzentakata, quận Iwate, 29/03/2011 (ảnh trên) và khu vực đó 2 năm sau thảm hoạ, 19/02/2013 (ảnh dưới).

Khung cảnh hoang tàn ở Minamisanriku, quận Miyagi, 2 ngày sau thảm hoạ, 13/03/2011. Ảnh dưới là khu vực đó 2 năm sau, 02/03/2013.

Người dân đi ngang qua những chiếc xe bị hư hỏng trên một con đường ở khu vực Tagajo, quận Miyagi, 13/03/2011 (ảnh trên) và chính con đường đó hai năm sau, 21/02/2013.

Người dân đi xe đạp trên một con đường ở Ofunato, quận Iwate, 3 ngày sau thảm hoạ, 14/03/2011 (ảnh trên). Hai năm sau, khung cảnh đã thay đổi hoàn toàn nhưng chắc chắn ký ức về thảm hoạ khủng khiếp vẫn còn rất rõ trong tâm trí của người dân nơi đây, 19/02/2013.

Một nhân viên cứu hộ đi qua đống đổ nát tại một khu vực bị sóng thần tàn phá ở Minamisanriku, quận Miyagi, 18/03/2011 (ảnh trên) và chính khu vực đó 2 năm sau, 20/02/2013.

Một cây hoa anh đào nở rộ giữa những đống đổ nát sau thảm hoạ động đất sóng thần ở thành phố Kamaishi, quận Iwate, 20/04/2011 (ảnh trên) và nơi đó 2 năm sau, 18/02/2013 (ảnh dưới).

Ảnh chụp gần hơn chiếc du thuyền bị sóng thần đánh dạt lên ngôi nhà 2 tầng ở Otsuchi, quận Iwate, 16/04/2011 (ảnh trên); và ngôi nhà đó 2 năm sau, chiếc thuyền đã được đưa đi, 18/02/2013 (ảnh dưới).

Ngày 12/03/2011, người dân đi sơ tán bằng thuyền qua một con đường bị ngập nước sau trận sóng thần ở thành phố Ishinomaki, quận Miyagi (ảnh trên); và chính con đường đó 2 năm sau, 22/02/2013 (ảnh dưới).

Sóng thần tàn phá Ofunato, quận Iwate, 14/03/2011 (ảnh trên). Hai năm sau những đống đổ nát được dọn dẹp sạch sẽ, các ngôi nhà bị hỏng vẫn chưa được dựng lại, 18/02/2013 (ảnh dưới).

Những con sóng tràn thần qua bờ đê và tràn vào thành phố Miyako, quận Iwate, ảnh chụp của một quan chức thành phố Miyako, 11/03/2011 (ảnh trên) và khung cảnh 2 năm sau khi biển đã bình yên trở lại, 18/02/2013 (ảnh dưới).

Nguồn: tinhte.vn - The Atlantic

Thứ Hai, 11 tháng 3, 2013

Kangaroo là biểu tượng của Úc

Kangaroo, hay Chuột túi, là một nhóm các loài thú có túi thuộc họ Chân to (Macropodidae). Từ kangaroo thường dùng để chỉ một số loài lớn nhất trong họ này như Kangaroo đỏ, Kangaroo Antilopin và Kangaroo xám. Kangaroo còn có nhiều loài nhỏ hơn. Kangaroo là biểu tượng của Úc.

Sa mạc nước Úc rất nóng, nhưng Kangaroo có thể sống được lâu dài trên đó. Khi quá nóng, chúng liếm cặp chân trước (có ít lông). Khi nước bọt bay hơi, nó sẽ làm mát máu bên dưới lớp da rồi toàn cơ thể.

Kangaroo thuộc nhóm động vật mà con của chúng được sinh ra trước khi phát triển đầy đủ, sau đó được mang trong túi. Thông thường, chúng sinh ra mỗi lứa một con. Lúc sinh, chuột con có màu đỏ, chưa có mắt và tai rất nhỏ: dài khoảng 1 inch (2,5 cm), nặng khoảng 0,8 đến 1 Gram. Chúng bò đến túi của mẹ để bú rồi ở đó trong khoảng 8 tháng. Sau khi ra ngoài, chúng vẫn phải bú sữa mẹ đến 1 tuổi.

Tất cả các loài kangaroo đều có chân sau khoẻ, bàn chân dài và hẹp. Chúng ngồi trên những đôi chân này và đuôi xù to vững chắc. Nếu kiếm ăn hoặc di chuyển ở tốc độ chậm, chúng dùng tất cả 4 chân, còn khi đi nhanh thì chúng di chuyển bằng cách nhảy vọt. Đuôi của chúng giúp cơ thể giữ thăng bằng khi nhảy. Khi có giao tranh giữa 2 con đực, chúng có thể đứng trên đuôi và dùng hai chi sau để tự vệ.

Kangaroo chủ yếu hoạt động vào ban đêm. Vào những tháng mát trời, chúng có thể kiếm ăn cả ngày. Thức ăn của chúng chủ yếu là nấm, các loài cây, sâu bọ...

Từ kangaroo xuất phát từ từ gangurru trong tiếng Guugu Yimithirr, ám chỉ kangaroo xám. Cái tên đã được ghi nhận lần đầu tiên là "kangooroo hay kanguru" vào ngày 4 tháng 8 năm 1770, bởi Trung uý (sau này trở thành Thuyền trưởng) James Cook tên bờ sông Endeavour, nay là Cooktown, khi HM Bark Endeavour cập bờ trong gần 7 tuần để sửa chữa hư hỏng do rạn san hô Great Barrier gây ra. Guugu Yimithirr là ngôn ngữ của người dân trong vùng.

Một huyền thoại phổ biến trong tiếng Anh cho rằng "kangaroo" là một câu trong tiếng Guugu Yimithirr nghĩa là "Tôi không hiểu." Huyền thoại này đã bị vạch trần vào thập niên 70 bởi linguist John B. Haviland trong nghiên cứu về người Guugu Yimithirr của ông.

Nguồn: Wikipedia.org

decal nhôm, decal nhựa, đề can chống cháy, decal, đề can, nhãn mác, không halogen, Halogen free - flame retardant, sticker labels, printing stickers, stickers, keo dán sắt, keo dán nhựa, keo dán vải, keo dán gỗ, keo dán đa năng, hàn chì, đầu hàn, mỏ hàn, SMT, ESD.

Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2013

Kangaroo, hay Chuột túi

Kangaroo, hay Chuột túi, là một nhóm các loài thú có túi thuộc họ Chân to (Macropodidae). Từ kangaroo thường dùng để chỉ một số loài lớn nhất trong họ này như Kangaroo đỏ, Kangaroo Antilopin và Kangaroo xám. Kangaroo còn có nhiều loài nhỏ hơn. Kangaroo là biểu tượng của Úc.

Sa mạc nước Úc rất nóng, nhưng Kangaroo có thể sống được lâu dài trên đó. Khi quá nóng, chúng liếm cặp chân trước (có ít lông). Khi nước bọt bay hơi, nó sẽ làm mát máu bên dưới lớp da rồi toàn cơ thể.

Kangaroo thuộc nhóm động vật mà con của chúng được sinh ra trước khi phát triển đầy đủ, sau đó được mang trong túi. Thông thường, chúng sinh ra mỗi lứa một con. Lúc sinh, chuột con có màu đỏ, chưa có mắt và tai rất nhỏ: dài khoảng 1 inch (2,5 cm), nặng khoảng 0,8 đến 1 Gram. Chúng bò đến túi của mẹ để bú rồi ở đó trong khoảng 8 tháng. Sau khi ra ngoài, chúng vẫn phải bú sữa mẹ đến 1 tuổi.

Tất cả các loài kangaroo đều có chân sau khoẻ, bàn chân dài và hẹp. Chúng ngồi trên những đôi chân này và đuôi xù to vững chắc. Nếu kiếm ăn hoặc di chuyển ở tốc độ chậm, chúng dùng tất cả 4 chân, còn khi đi nhanh thì chúng di chuyển bằng cách nhảy vọt. Đuôi của chúng giúp cơ thể giữ thăng bằng khi nhảy. Khi có giao tranh giữa 2 con đực, chúng có thể đứng trên đuôi và dùng hai chi sau để tự vệ.

Kangaroo chủ yếu hoạt động vào ban đêm. Vào những tháng mát trời, chúng có thể kiếm ăn cả ngày. Thức ăn của chúng chủ yếu là nấm, các loài cây, sâu bọ...

Từ kangaroo xuất phát từ từ gangurru trong tiếng Guugu Yimithirr, ám chỉ kangaroo xám. Cái tên đã được ghi nhận lần đầu tiên là "kangooroo hay kanguru" vào ngày 4 tháng 8 năm 1770, bởi Trung uý (sau này trở thành Thuyền trưởng) James Cook tên bờ sông Endeavour, nay là Cooktown, khi HM Bark Endeavour cập bờ trong gần 7 tuần để sửa chữa hư hỏng do rạn san hô Great Barrier gây ra. Guugu Yimithirr là ngôn ngữ của người dân trong vùng.

Một huyền thoại phổ biến trong tiếng Anh cho rằng "kangaroo" là một câu trong tiếng Guugu Yimithirr nghĩa là "Tôi không hiểu." Huyền thoại này đã bị vạch trần vào thập niên 70 bởi linguist John B. Haviland trong nghiên cứu về người Guugu Yimithirr của ông.

Nguồn: Wikipedia.org

decal nhôm, decal nhựa, đề can chống cháy, decal, đề can, nhãn mác, không halogen, Halogen free - flame retardant, sticker labels, printing stickers, stickers, keo dán sắt, keo dán nhựa, keo dán vải, keo dán gỗ, keo dán đa năng, hàn chì, đầu hàn, mỏ hàn, SMT, ESD.